Sai lầm lớn nhất bạn có thể mắc phải khi áp dụng các quy tắc này là công nhận sự tồn tại của mối liên hệ 1-1 giữa các yếu tố ngôn ngữ và các yếu tố tư duy hoặc kiến thức. Trong bất kỳ môn nghệ thuật hay lĩnh vực thực hành nào, các quy tắc thường quá chung chung nên người học khó áp dụng chúng. Nếu độc giả không hiểu cuốn sách đó, họ chỉ có một cách duy nhất là dựa vào các kinh nghiệm đặc biệt của bản thân.
Đọc kịch của Shaw mà không đọc phần tựa tức là bạn đã quay lưng lại với phao cứu trợ giúp bạn hiểu nội dung tác phẩm. Hoặc họ không bao giờ trình bày các nguyên tắc đó một cách rõ ràng mà cứ để chúng lan toả trong các tác phẩm của mình. Những khám phá do bản thân bạn tìm ra sẽ có giá trị gấp nhiều lần ý kiến của người khác.
Thứ hai, nếu lời bình luận đưa ra là đúng thì cũng chưa chắc đã thấu đáo (tức là bạn có thể phát hiện ra những ý nghĩa quan trọng trong một cuốn sách mà một bình luận gia chưa phát hiện thấy). Những quy tắc này đã rất quen thuộc và phải được áp dụng chặt chẽ hơn ở đây. Những cản trở trong quá trình hiểu một cuốm sách khó không đơn thuần là vấn đề sinh lý hay tâm lý.
Còn độc giả các tác phẩm thơ ca hay giả tưởng không hành động như vậy, mà tuỳ theo tác phẩm tác động đến độc giả như thế nào thì độc giả hành động như thế. Ở quãng nghỉ giữa mỗi lần đọc, chúng ta có thể học được nhiều điều từ bài thơ hơn là ta nhận ra. Bạn sẽ nhận thấy rằng năm câu hỏi này chỉ là những cách biến đổi khác nhau của những câu hỏi mà chúng tôi khuyên bạn nên đặt ra khi đọc bất cứ cuốn sách mô tả nào.
Sự chần chừ của độc giả là phản ứng đối với sự thất bại của tác giả trong việc giải quyết hoàn chỉnh vấn đề. Trường hợp này cũng giống như một người không biết 2 + 2 = 4 và 4 2 = 2 là những cách trình bày khác nhau của cùng một mối quan hệ số học giữa 4 và 2: 4 gấp hai lần 2, hay 2 bằng một nửa của 4. Những nguyên tắc đó sẽ được trình bày trong phần tiếp theo.
Việc phân biệt các nhận định ẩn chứa trong một câu dài và phức tạp rất quan trọng. Hơn nữa, việc sử dụng từ là và một vật cho thấy vật được đề cập tới phải là một thực thể nhất định. Chúng ta thường mặc định là tác giả cuốn sách chúng ta muốn đọc kỹ phải là người giỏi hơn ta, nhất là khi đó là một tác phẩm vĩ đại.
Độc giả bình thường trong đó có bạn có thể tiếp cận các tác phẩm đó. Chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu khá sâu về vấn đề này (Chú thích: Kết quả của những nghiên cứu này được xuất bản trong cuốn The Idea of Progress, New York: Praeger, 1967. Đối với sách lý thuyết, bạn có thể trả lời câu hỏi này bằng cách đối chiếu, so sánh những gì tác giả miêu tả và giải thích về sự vật, hiện tượng với kiến thức của riêng mình.
Chân lý, giả định, hay các nguyên lý cơ bản đều cần đề làm chứng cớ chứng minh những nhận định khác. Họ không biết các quy tắc đọc sách; không biết cách sắp xếp vốn tri thức của mình để giải quyết vấn đề. Đó là ta không thể biết chắc về những điều đang diễn ra cũng như ta hoàn toàn mù mờ về những điều đã xảy ra trong quá khứ.
Một câu chuyện hay, làm cho người đọc thoả mãn thường có sự công bằng đó. Sau khi nắm được cốt truyện, qua đó nắm được sự thống nhất của toàn bộ phần lời kể, bạn có thể sắp xếp các phần vào vị trí phù hợp. Phân loại sách chính là quy tắc đầu tiên của kỹ năng đọc phân tích, và có thể được diễn đạt như sau.
Sự thật không phải như vậy. Khi đối diện với một cuốn sách triết học, độc giả cũng không còn cách nào khác là phải đọc nó, nghĩa là suy nghĩ về nó. Mặc dù bất cứ điều gì bạn biết thêm về tác giả và thời đại người đó sống đều hữu ích, nhưng kiến thức uyên bác về hoàn cảnh ra đời của một bài thơ không đảm bảo chắc chắn việc bạn hiểu đúng bài thơ đó.